Tạo tiền đề để ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) ô tô phát triển, Việt Nam cần chú trọng đầu tư nguồn lực, nhất là nhân tố con người.
Nguồn nhân lực khiêm tốn
So với nhiều quốc gia trong khu vực, doanh nghiệp CNHT ngành ô tô Việt Nam nhìn chung phát triển còn khá chậm cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, chỉ có một số doanh nghiệp trong nước có thể tham gia vào chuỗi cung ứng của các nhà sản xuất, lắp ráp ô tô tại Việt Nam. Số lượng nhà cung cấp của Việt Nam trong ngành này vẫn còn rất ít so với Thái Lan. Cụ thể: Thái Lan có gần 700 nhà cung cấp cấp 1, con số đó tại Việt Nam chỉ chưa đến 100; trong khi Việt Nam có chưa đến 150 nhà cung cấp cấp 2, cấp 3 thì Thái Lan có đến khoảng 1.700.
Thống kê cho thấy, tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến xe 9 chỗ ngồi còn hạn chế: Mục tiêu đề ra vào năm 2020 là 30 – 40%, mức 40 – 45% vào năm 2025 và 50 – 55% vào năm 2030. Tuy nhiên, đến nay, kết quả thực tế mới đạt bình quân khoảng 7 – 10%, trong đó Toyota Việt Nam đạt mức 37% đối với dòng xe Innova (theo thống kê từ phía doanh nghiệp), Thaco đạt 15 – 18%, thấp hơn rất nhiều so với kỳ vọng, cũng như “lép vế” hơn hẳn so với các quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Malaysia và Indonesia.
Giá trị sản xuất của lĩnh vực CNHT ngành ô tô chỉ chiếm khoảng 2,7% tổng giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp; mức tăng trưởng bình quân cũng thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng của toàn ngành.
Phụ tùng linh kiện ô tô đang sản xuất tại Việt Nam chủ yếu áp dụng công nghệ giản đơn, các phụ tùng thâm dụng lao động như ghế ngồi, kính, săm lốp, bánh xe… Việt Nam phải nhập khẩu ròng hầu hết các nhóm sản phẩm CNHT có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao, nhất là các bộ phận, linh kiện quan trọng, thuộc hệ thống phanh, ly hợp, hộp số, hệ thống lái, yêu cầu công nghệ chế tạo ở mức cao.
Hàn Quốc và những kinh nghiệm xương máu cho Việt Nam
Theo ý kiến nhiều chuyên gia, Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu mô hình của Hàn Quốc trong lĩnh vực CNHT ngành ô tô với 6 giải pháp ưu tiên:
Thứ nhất, cần tập trung nguồn vốn xây dựng cơ bản nhằm bố trí, xây dựng cơ sở vật chất để hình thành phát triển ít nhất 3 Trung tâm hỗ trợ phát triển CNHT phân bổ tại 3 miền. Tạo sự hiện diện các Trung tâm kỹ thuật, thiết bị máy móc dùng chung, từ đó cung cấp các dịch vụ chế tạo thử nghiệm, kiểm định, đo lường, chứng nhận chất lượng sản phẩm, tư vấn, hợp tác chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp CNHT; trong đó có các doanh nghiệp CNHT ngành ô tô và các ngành dịch vụ cải tiến, phát triển doanh nghiệp.
Thứ hai, dựa trên cơ sở Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 18/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ, cần bố trí đủ nguồn kinh phí sự nghiệp nhằm triển khai hiệu quả các nội dung hỗ trợ các doanh nghiệp CNHT trong nước.
Thứ ba, nâng cao vai trò và khuyến khích các địa phương xây dựng các chính sách, chương trình phát triển CNHT riêng, trong đó chú trọng CNHT cho ngành ô tô; đầu tư các nguồn lực trên địa bàn trên cơ sở căn cứ các quy định của pháp luật và bảo đảm phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của địa phương đó.
Thứ tư, cần xây dựng các gói tín dụng ưu đãi cho phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên, trong đó có CNHT ngành ô tô, có thời hạn đến năm 2025; thu hút đầu tư phát triển CNHT ngành ô tô.
Thứ năm, thu hút đầu tư các nhà sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh và các nhà cung cấp cụm linh kiện, linh kiện lớn trong ngành ô tô trên thế giới, đặc biệt là các doanh nghiệp đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam với mục tiêu phục vụ thị trường trong nước và thị trường ASEAN hơn là phục vụ thị trường toàn cầu.
Thứ sáu, cần thúc đẩy các dự án lớn về công nghiệp vật liệu, đặc biệt là các dự án sản xuất thép cán nóng, thép chế tạo… của các nhà đầu tư trong nước để bảo đảm nguồn vật liệu đầu vào cho CNHT ngành ô tô.
IDC xin thông báo: Hiện tại website đang trong quá trình cập nhật nội dung cũng như hoàn chỉnh về mặt kỹ thuật nên có nhiều thiếu sót. Vì vậy, quý đọc giả, doanh nghiệp và báo chí nếu có góp ý hãy liên hệ cho quản trị Website : Ông Lê Xuân Thọ - Chánh Văn phòng (Hotline: 0948020812)